Ung thư thanh quản thường xuất hiện ở những người trên 55 tuổi. Ở Mỹ, bệnh gặp ở nam giới nhiêu gấp bốn lần so với nữ giới và thường gặp ở người Mỹ da đen hơn người Mỹ da trắng. Các nhà khoa học ở bệnh viện và các trung tâm y tế trên cả nước đang nghiên cứu về căn bệnh này và tìm hiểu thêm về nguyên nhân cũng như cách phòng chống căn bệnh này. Nhưng chúng ta có thể chắc chắn một điều là không ai lây ung thư từ một người khác. Ung thư không phải là căn bệnh lây nhiễm.
Nguyên nhân ung thư thanh quản
Không ai biết chính xác nguyên nhân gây ung thư thanh quản. Các thầy thuốc không thể giải thích được vì sao bệnh nhân này bị bệnh còn bệnh nhân khác thì không. Nhưng chúng ta biết ung thư thanh quản là bệnh không lây lan. Người ta không thể nhiễm ung thư từ một người khác.
Những người có một số yếu tố nguy cơ nhất định sẽ có khả năng bị ung thư thanh quản cao hơn. Các nghiên cứu đã tìm ra các yếu tố nguy cơ sau:
- Tuổi: Ung thư thanh quản thường gặp ở những bệnh nhân trên 55 tuổi.
- Giới: nam giới có nguy cơ bị ung thư thanh quản cao gấp 4 lần nữ giới.
- Dân tộc: Các châu Mỹ có nguy cơ bị mắc bệnh ung thư thực quản cao hơn dân da trắng.
- Hút thuốc: Những người hút thuốc lá có nguy cơ cao hơn rất nhiều nhũng người không hút thuốc lá.
- Rượu: Những người uống rượu sẽ có nguy cơ cao hơn bị mắc bệnh ung thư thanh quản so với những bệnh nhân không uống rượu.
- Tiền sử bản thân: Những bệnh nhân có tiền sử bị các bệnh ung thư vùng đầu mặt cổ có nguy cơ cao hơn bị ung thư thanh quản.
- Nghề nghiệp: Công nhân tiếp xúc với acid sulfuric hoặc niken có nguy cơ cao bị ung thư thanh quản.
Triệu chứng của ung thư thanh quản
Triệu chứng của ung thư thanh quản phụ thuộc chủ yếu vào kích thước và vị trí của khối u. Hầu hết các trường hợp ung thư thanh quản đều bắt đầu ở dây thanh âm. Những khối u này hiếm khi gây đau đớn nhưng chúng hầu như luôn gây ra hiện tượng khàn giọng hoặc thay đổi giọng nói. Khối u ở vùng phía trên dây thanh âm có thể gây nổi cục ở cổ, đau họng hoặc đau tai. Khối u vùng phía dưới dây thanh âm thường hiếm gặp. Chúng có thể gây khó thở hoặc thở có tiếng ồn, ho kéo dài hoặc cảm giác có cục ở cổ họng có thể là những dấu hiệu báo động của ung thư thanh quản. Khi khối u phát triển, nó có thể gây đau, giảm cân, khó thở và hay bị nghẹn thức ăn. Trong một số trường hợp, khối u ở thanh quản có thể gây khó nuốt.
Tất cả những triệu chứng này có thể do ung thư thanh quản hoặc do các tình trạng bệnh khác ít nghiêm trọng hơn gây ra. Chỉ có bác sĩ mới có thể khầng định được chắc chắn. Những người có các triệu chứng kể trên nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng.
Chẩn đoán ung thư thanh quản
Để tìm nguyên nhân gây ra những triệu chứng này, bác sĩ sẽ hỏi về tiền sử bệnh sử của bệnh nhân và tiến hành khám lâm sàng đầy đủ. Bên cạnh việc kiểm tra những dấu hiệu sức khỏe chung, bác sĩ khám kĩ vùng cổ để tìm u cục, sự phù nề, vị trí nhạy cảm đau và các thay đổi khác.
Bác sĩ có thể quan sát thanh quản bảng hai cách:
Soi thanh quản gián tiếp. Bác sĩ quan sát họng bằng một gương cầm tay nhỏ để tìm những vùng bất thường và sự di động của dây thanh âm. Khám nghiệm này không gây đau đớn, nhưng người ta có thể xịt thuốc tê vào cổ họng để phòng hiện tượng oẹ. Có thể thực hiện thủ thuật này ở phòng khám của bác sĩ.
Soi thanh quản trực tiếp. Bác sĩ đưa một ống có nguồn sáng (ống nội soi thanh quản) qua mũi hoặc miệng của bệnh nhân. Khi ống này đi xuống họng, bác sĩ có thể quan sát được những vùng không thể nhìn thấy qua gương soi đơn giản. Việc gây tê tại chỗ giúp làm giảm bớt sự khó chịu và phòng hiện tượng oẹ. Bệnh nhân có thể được cho uống thuốc an thần nhẹ. Đôi khi, bác sĩ có thể gây mê toàn thân để làm cho bệnh nhân ngủ. Có thể soi thanh quản ở phòng khám của bác sĩ, ờ một phòng khám ngoại trú hay ở bệnh viện.
Nếu bác sĩ phát hiện ra những vùng bất thường,bệnh nhân cần phải được sinh thiết. Sinh thiết là cách duy nhất chắc chắn để khẳng định ung thư. Để tiến hành sinh thiết, bệnh nhân được gây tê tại chỗ hoặc gây mê toàn thân và bác sĩ lấy một mẫu bệnh phẩm qua ống nội soi thanh quản. Sau đó, bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ quan sát mẫu mô này dưới kính hiển vi để tìm tế bào ung thư. Nếu phát hiện ra ung thư, bác sĩ giải phẫu có thể cho biết đó là loại ung thư gì. Hầu hết các trường hợp ung thư thanh quản là ung thư biểu mô tế bào vẩy. Loại ung thư này bât đầu từ các tế bào dẹt dạng vẩy lót nắp thanh quản, dây thanh âm và các bộ phận khác của thanh quản.
Một số thăm dò khác. Nếu bác sĩ giải phẫu bệnh phát hiện ra ung thư, bác sĩ của bệnh nhân cần biết giai đoạn (phạm vi) của bệnh để lập kế hoạch điều trị tốt nhất. Để biết được kích thước của khối u và để xem ung thư đã lan chưa, bác sĩ thường chỉ định thêm một số thăm dò khác như chụp X quang, chụp cắt lớp vi tính và/hoặc chụp cộng hưởng từ để có được những hình ảnh chi tiết của những vùng trong cơ thể.
Điều trị ung thư thanh quản
Ung thư thanh quản thường được điều trị bằng tia xạ hoặc bằng phẫu thuật. Đây là các phương pháp điều trị tại chỗ, có nghĩa là chúng chỉ ảnh hưởng tới tế bào ung thư ở vùng được điều trị. Một số bệnh nhân có thể được điều trị bằng hóa chất, được gọi là điều trị toàn thân, có nghĩa là thuốc được vận chuyển đi khắp các mạch máu. Chúng có thể đến được các tế bào ung thư trên toàn bộ cơ thể. Bác sĩ có thể chỉ sử dụng một phương pháp hoặc có thể kết hợp các phương pháp, tuỳ thuộc vào nhu cầu của bệnh nhân.
Trong một số trường hợp, bệnh nhân được giới thiệu đến bác sĩ chuyên điều trị các loại ung thư khác nhau. Thông thường, có nhiều chuyên gia cùng làm việc trong một đội. Đội ngũ bác sĩ điều trị có thể bao gồm một bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ tai mũi họng, bác sĩ ung thư, bác sĩ tia xạ ung thư, bác sĩ chuyên về phát âm, y tá và chuyên gia dinh dưỡng. Nha sĩ cũng có thể là một thành viên quan trọng trong đội ngũ này, đặc biệt là đối với bệnh nhân được điều trị bằng tia xạ.
Liệu pháp chiếu xạ:
Liệu pháp tia xạ sử dụng những tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư và ngăn chặn chúng phát triển. Tia được chiếu vào khối u và vùng xung quanh nó. Bất cứ khi nào có thể, bác sĩ thường gợi ý phương pháp điều trị này vì nó có thể phá huỷ khối u mà không làm bệnh nhân mất tiếng. Liệu pháp chiếu xạ có thể kết hợp với phẫu thuật; nó có thể được sử dụng để làm co nhỏ khối u trước khi phẫu thuật hoặc tiêu diệt tế bào ung thư còn sót lại sau khi phẫu thuật. Hơn nữa, phương pháp chiếu xạ có thể được sử dụng để điều trị những khối u không thể cắt bỏ được hoặc những bệnh nhân không thể phẫu thuật vì những lý do khác. Nếu khối u tái phát sau phẫu thuật, nói chung người ta thường điều trị nó bằng tia xạ.
Phẫu thuật:
Phẫu thuật hoặc phẫu thuật kết hợp với tia xạ được chi định cho một số bệnh nhân mới được chẩn đoán ung thư. Hơn nữa, phẫu thuật là phương pháp điều trị thường được áp dụng nếu khối u không đáp ứng với liệu pháp chiếu xạ hoặc phát triển trở lại sau khi chiếu xạ. Khi bệnh nhân cần phẫu thuật, kiểu phẫu thuật phụ thuộc chủ yếu vào kích thước và vị trí chính xác của khối u.
Nếu khối u ở trên dây thanh âm rất nhỏ, bác sĩ phẫu thuật có thể sử dụng tia laser, một chùm ánh sáng mạnh. Chùm sáng này có thể cắt bỏ khối u theo cách giống như dùng một dao mổ.
Phẫu thuật để cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ thanh quản được gọi là thủ thuật cắt thanh quản bán phần hoặc toàn bộ. Trong cả hai loại phẫu thuật, bác sĩ phẫu thuật phải mở khí quản, tạo ra một lỗ thoát ra phía trước cổ (lỗ thoát có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn). Không khí đi vào và ra khỏi khí quản và phổi qua lỗ mở khí quản này. Một ống mở thông khí quản giữ cho đường dẫn khí mới này ở trạng thái mở.
Phẫu thuật cắt bỏ thanh quản bán phần có thể bảo toàn giọng nói. Bác sĩ phẫu thuật chi cắt bỏ một phần hộp âm thanh – chỉ cắt một dây thanh âm hoặc một đoạn dây thanh âm hoặc chi cắt nắp thanh quản – và lỗ mở khí quản chỉ là tạm thời. Sau một thời gian hồi phục ngắn, ống mở thông khí quản được rút ra và lỗ thông đóng lại. Bệnh nhân có thể thở và nói chuyện như bình thường. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, giọng nói có thể bị khàn hoặc yếu đi.
Trong phẫu thuật cắt bỏ thanh quản toàn bộ, toàn bộ hộp âm thanh được cắt bỏ và lỗ thoát được mở vĩnh viễn. Người bị cắt thanh quản thở qua lỗ mở khí quản. Người có thanh quản bị cắt phải học nói theo cách mới.
Nếu bác sĩ cho rằng ung thư có thể đã bắt đầu lan thì các hạch ở cổ và một số mô ở quanh chúng được cắt bỏ. Những hạch này thường là những vị trí đầu tiên ung thư lan tới.
Hóa trị liệu:
Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc điều trị ung thư để tiêu diệt tế bào ung thư. Bác sĩ có thể gợi ý một loại thuốc hoặc kết hợp nhiều loại thuốc. Trong một số trường hợp, các thuốc chống ung thư được sử dụng để làm co nhỏ khối u trước khi bệnh nhân được phẫu thuật hoặc chiếu xạ. Hơn nữa, hóa chất có thể được sử dụng để điều trị ung thư đã lan.
Thuốc điều trị ung thư thanh quản thường được tiêm vào mạch máu. Thông thường thuốc được điều trị theo chu kỳ – một đợt điều trị được nối tiếp bằng một đợt nghỉ hồi phục, sau đó là một đợt điều trị khác và một đợt nghi hồi phục và tương tự như vậy. Một số bệnh nhân được điều trị hóa chất ngoại trú tại bệnh viện, văn phòng bác sĩ hoặc tại nhà.Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc, kế hoạch điều trị và tình trạng sức khỏe chung, bệnh nhân có thể cần phải nằm viện trong một thời gian ngắn.
Ung thư thanh quản sống được bao lâu?
Thời gian sống thêm của bệnh nhân phụ thuộc lớn vào giai đoạn phát triển của khối u, cụ thể:
Giai đoạn 1 (giai đoạn khu trú):
Khối u chỉ phát triển trong khu vực thanh quản. Tỷ lệ sống khoảng 5 năm là 39%.
Giai đoạn 2 (giai đoạn tiến triển):
Khối ung thư đã lan sang đến các hạch bạch huyết gần thanh quản hoặc các mô gần thanh quản. Tỷ lệ sống khoảng 5 năm là 21%.
Giai đoạn 3 (giai đoạn di căn):
Khối ung thư đã lan đến các cơ quan khác trên cơ thể hoặc các hạch ở xa thanh quản, gây nhiều khó khăn cho người bệnh. Tỷ lệ sống khoảng 5 năm là 4%.
Ngoài ra, phương pháp điều trị áp dụng, khả năng đáp ứng với quá trình điều trị và sức khỏe tổng quát của bệnh nhân trong suốt quá trình điều trị bệnh,… cũng quyết định không nhỏ đến kết quả điều trị.